Khi có thai người mẹ cần ăn uống nhiều hơn bình thường với
nhiều loại thực phẩm từ 4 nhóm (glucid, protid, lipid, vitamin và khoáng) vừa
cho mẹ và cho con. Nhưng trong thời kỳ thai nghén có người không thể ăn uống được gì. Hãy tham khảo một
số vấn đề sau đây để biết cách ăn uống hợp lý, tránh hiện tượng thiếu dinh dưỡng cho bé nhé.
Trong thời gian có thai người mẹ cần tăng cân từ 10 – 12 kg
để sinh con có trọng lượng khoảng 3000 gam. Khi có thai nên làm việc vừa phải, hoạt
động nhẹ nhàng, không làm việc nặng. Nghỉ ngơi là việc cần thiết cho bà mẹ và
thai nhi, tuy nhiên không nên nghỉ ngơi hoàn toàn bởi người mẹ sẽ khó đẻ.
Phụ nữ có thai, phụ nữ tuổi sinh đẻ, các em gái tuổi dậy thì
cần uống viên sắt/acid folic hoặc viên đa vi chất phòng chống thiếu máu thiếu sắt.
Với phụ nữ không có thai, bổ sung viên sắt/acid folic mỗi tuần 1 viên (60 mg sắt
nguyên tố, 2800 mcg acid folic) vào 1 ngày nhất định trong tuần trong 3 tháng,
nghỉ 3 tháng, sau đó tiếp tục bổ sung 3 tháng. Việc bổ sung có thể lặp lại chu
kỳ này trong năm.
Tập thể dục (ví dụ đi bộ) giúp người mẹ sảng khoái, tuần
hoàn lưu thông, ăn ngủ tốt. Trong thời gian có thai, người mẹ cần khám thai ít
nhất 3 lần vào: 3 tháng đầu, 3 tháng giữa, 3 tháng cuối và tiêm phòng 2 mũi uốn
ván. Nếu có hiện tượng bất thường (ra huyết, đau bụng) thì nên đến khám bác sĩ
ngay.
lượng 1 viên/ngày từ khi bắt đầu có thai cho tới 1 tháng sau
đẻ. Khi sinh con, bà mẹ cần được bổ sung 1 liều vitamin A trong vòng 1 tháng
sau đẻ, vitamin A được cung cấp cho trẻ qua sữa mẹ trong thời gian trẻ được bú
mẹ hoàn toàn.
Khi sinh con một số bà mẹ chờ sữa xuống mới cho con bú, vắt
sữa đầu bỏ đi, cho con uống nước cam thảo hoặc một số loại nước khác,… là hoàn
toàn sai lầm. Ngược lại, khi sinh con cần cho trẻ bú sớm trong vòng 1 tiếng đầu
tiên. Bú sớm có tác dụng làm cho sữa xuống nhanh, co hồi tử cung và bú được sữa
non rất tốt cho bé vì sữa non có gía trị dinh dưỡng cao, các kháng thể chống lại
bệnh tật, dễ tiêu hóa với trẻ và giúp thải phân xu ra ngoài. Cho trẻ bú hoàn
toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu và bú đến 18-24 tháng tuổi.
Khi tròn 6 tháng cần cho trẻ ăn thêm cùng với bú mẹ. Không
cho trẻ ăn quá sớm hoặc quá muộn, cho trẻ ăn thiếu về số lượng và chất lượng,
thiếu vệ sinh dẫn đến suy dinh dưỡng và bệnh tật. Thời kỳ bắt đầu cho trẻ ăn bổ
sung đến khi cai sữa là thời kỳ đe doạ suy dinh dưỡng nhất đối với trẻ.
Ăn bổ sung là quá trình trẻ từ từ làm quen với thức ăn của
gia đình và ngày càng bú mẹ ít hơn, quá trình bé chuyển dần từ thức ăn tinh (sữa
mẹ) sang thức ăn thô (4 nhóm thực phẩm). Thời kỳ này trẻ dễ bị mắc bệnh nhiễm
khuẩn vì trong 6 tháng đầu trẻ được mẹ truyền sang kháng thể từ trong thời kỳ
bào thai, từ tháng thứ 6 yếu tố này hoàn toàn do tự cơ thể trẻ. Vì vậy bất kỳ một
thức ăn bổ sung nào cho trẻ cũng phải được bảo quản và chế biến vệ sinh sạch sẽ.
Trẻ từ 6 - 36 tháng tuổi cần được bổ sung vitamin A liều cao
2 lần/1 năm (đợt 1 ngày 1 và 2-6; đợt 2 ngày 1 và 2-12 hàng năm)
Một trẻ khoẻ mạnh, phát triển bình thường khi ăn uống đủ nhu
cầu sẽ tăng cân hàng tháng. Việc theo dõi cân trẻ hàng tháng và chấm trên biểu
đồ tăng trưởng là biện pháp sớm nhất phát hiện trẻ có suy dinh dưỡng hay không,
nếu 2 tháng liền trẻ không tăng cân bà mẹ cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và
tư vấn dinh dưỡng.
Cân nặng của trẻ sơ sinh đủ tháng, khoẻ mạnh, lúc mới sinh
trung bình khoảng 3000 gam (3kg): 3 tháng đầu trẻ phát triển rất nhanh tăng cân
từ 1000-1200g/tháng; 3 tháng tiếp theo tăng cân từ 500-600g/tháng; 6 tháng tiếp
theo chỉ tăng từ 300-400g/tháng, khi 1 tuổi trẻ nặng gấp 3 lần lúc mới sinh
(khoảng 9-10 kg), từ 2-10 tuổi trẻ tăng trung bình 2-3 kg/năm.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét